Cay ké đầu ngựa là một loại cây được mọc hoang ở khắp mọi miền tổ quốc ta, với những hoạt chất cũng như tác dụng chữa bệnh khá hiệu quả của nó mà từ xưa đến nay cây ké đầu ngựa thường được các hiệu thuốc thu mua và chế biến nhằm đáp ứng được nhu cầu sử dụng chữa bệnh của nhân dân, Vạy hình dáng của nó gia sao cong dụng chữa bệnh của nó nhự thế nào hãy cùng Giải Đáp Việt chúng ta cùng nhau đi tìm hiểu nhé các bạn.

Hình dáng nhận biết và thành phần hóa học

Hình dáng Cây ké đầu ngựa

Cây ké đầu ngựa là một cây nhỏ, cao độ 2m thân có khía rãnh. Lá mọc so le, phiến lá hơi 3 cạnh, mép có răng cưa có chỗ khía hơi sầu thành 3 – 5 thùy, có lông ngắn cứng. Cụm hoa hình đầu có thứ lưỡng tính ở phía trên, có thứ chỉ gồm có hai hoa cái nằm trong hai lá bấc dày và có gai. Quả già hình thoi, có móc, có thể móc vào lông động vật. Trẻ con vẫn nghịch bỏ vào tóc nhau rất khó gỡ ra (cắt đôi thấy ở trong có hai quả thực).
Phân bố, thu hái và chế biến
Cây ké này mọc hoang ở khắp nơi ở Việt Nam. Hái cả cây trừ bỏ rễ phơi hay sấy khô. Hoặc chỉ hái quả chín rồi phơi hay sấy khô.

Thành phần hóa học

Hiện nay chưa rõ hoạt chất của quả ké đầu ngựa là gì. Mới biết rằng trong quả ké đầu ngựa có chừng 30% chất béo, 1,27% một chất glucozit gọi là xanthostrumarin tương ứng với chất datixin, chưa rõ tính chất, 3,3% nhựa và vítamin c (Wehmer, 1931).

Theo Xốcôlôv (1952) trong quả và cây ké đầu ngựa ở Liên Xô đều chứa ancaloit nhưng theo sự phân tích cùa hệ dược viện y học Bắc Kinh (1958) thì trong quả ké đầu ngựa có một chất saponin (glucozit), không có ancaloit.
Năm 1974, Khíagy (1974, Pianta medica 8,75) đã tách từ trong ké đầu ngựa một nhóm sesquitecpen chứa  no, lacton có khung xanthonolit: xanthinin (độ chảy 123-124), xanthanola và izoxanthanola.
Quả Ké chứa:
Carboxy atractylozit ở dạng muối có tác dụng hạ đường huyết rất mạnh, có độc tính.
Xanthetin và xanthamin là những chắt có tác dụng kháng khuẩn.
Toàn cây chứa nhiều iốt. Trong hai nãm 1969 và 1970, Đỗ Tất Lợi, Phạm Kim Loan và Nguyễn Vãn Cát (Trường đại học dược khoa Hà Nội) đã định tính và định lượng iốt trong cây ké đầu ngựa Việt Nam thấy rằng dù cây ké đầu ngựa mọc ở miền núi, hay đồng bằng, gần biển hay xa biển đều có chứa iốt với hàm lượng khá cao, 1g lá hoặc thân chứa trung bình 200 microgam, 1g qủa chứa 220-230 microgam, nước sắc 15 phút cô thành cao chứa 300 microgam trong 1g cao: Nếu nấu lâu 5 giờ có thể chứa tới 420-430 microgam trong 1g cao. Trên cơ sở phân tích ấy đã đề nghị dùng ké trong điểu trị bướu cổ.

Tác dụng dược lý
Chưa thấy có tài liệu. Nhưng kinh nghiệm lâm sàng ở Sở da liễu Nam Xương-Giang Tây, 1959 đã sừ dụng cao quả ké đầu ngựa chữa 22 trường hợp bệnh ngoài da, kết qủa khỏi hẳn 11, đỡ rõ rệt 8, có tiến bộ 3, không có trường hợp nào không có kết quả rõ rệt.

Trong hai năm 1969, 1970 Tổng cục lâm nghịêp Việt Nam đã dùng cao ké chế thành viên chữa bướu cổ tại một số lâm trường miển núi. Kết qủa đạt trên 80%.
Qua những tài liệu cũ, quả ké đầu ngựa dùng chữa những trường hợp da xù xì màu đỏ như bị hủi. Tại nhiều vùng ở Việt Nam, Liên Xô cũ và Trung Quốc nhân dân vẫn dùng ké đầu ngựa uống chữa mẩn ngứa, mụn nhọt và bướu cổ.

Công dụng điều trị bệnh và  liều dùng

Theo tài liệu cổ ké đầu ngựa có vị ngọt, tính ôn, hơi có độc. Vào phế kinh, có tác dụng làm ra mồ hôi, tán phong, dùng trong các chứng phong hàn, đau nhức, phong thấp, tê dại, mờ mắt, chân tay co dật, uống lâu ích khí. Phàm không phải phong nhiệt chớ dùng.

Trong sách cổ nói dùng ké phải kiêng thịt lợn. Nếu dùng thịt lợn cùng khi uống ké thì khắp mình sẽ nổi quầng đỏ.
Hiện nay ké đầu ngựa là một vị thuốc thường dùng trong nhân dân Việt Nam, Trung Quốc chữa mụn nhọt, lở loét, bướu cổ, ung thư phát bối (đằng sau lưng), mụn nhọt không đầu, đau ràng, đau cổ họng, viêm mũi.

Nhân dân Liên Xô cũ dùng ké đầu ngựa để chữa bướu cồ, các bệnh mụn nhọt, nấm tóc, hắc lào, lỵ và đau răng.
Nhân dân ta và Trung Quốc thường chế thành cao thương nhĩ còn gọi là vạn ứng cao. Cách làm như sau: Từ tháng 5 đến tháng 9, hái toàn cây về phơi khô, cắt nhỏ nấu với nước, lọc và cô thành cao mềm. Cao dễ lên men, đóng chai thường phụt bật nút lên. Khi uống hòa với nước âm ấm, mỗi ngày từ 6 đến 8g cao. Uống luôn từ nửa tháng đến hai tháng.
Có thể chế thành thuốc viên thương nhĩ hoàn như sau: Bỏ rễ, rửa sạch, cắt ngắn cho vào nồi nấu với nước sôi trong một giờ, lọc lấy nước, bã còn lại thêm nước, nấu sôi một giờ nữa, lọc và ép lấy hết nước. Hợp cả 2 nước lại, cô thành cao mềm. Khi nào lấy que thủy tinh nhúng vào cao, nhỏ lên giấy, giọt cao không loang ra nữa là được. Sau đó thêm vừa đủ bột vào (chừng 1/3 lượng cao) trộn đều chế thành viên.
Trước khi ăn cơm thì uống. Ngày uống 3 lần, mỗi lần uống 16-20g. Theo sách cổ, uống cao thương nhĩ phải kiêng thịt lợn, thịt ngựa sợ độc. Thực tế tại bệnh viện Giang Tây (Trung Quốc) bệnh nhân uống thuốc không kiêng thịt vẫn không xảy ra hiện tượng độc nào mà thuốc vẫn có tác dụng tốt.
Thuốc cao và thuốc viên nói trên chuyên chữa lờ loét, mụn nhọt.
Đơn thuốc có ké đầu ngựa dùng trong nhân dân
Chữa đau răng: sắc nước qủa ké đầu ngựa, ngậm lâu lại nhổ. Ngậm nhiều lần.

Mũi chảy nước trong, đặc: Quả ké đầu ngựa sao vàng tán bột. Ngày uống 4-8g.
Chữa thủy thũng, bí tiểu tiện: Thương nhĩ tử, thiêu tổn tính, đình lịch. Hai vị bằng nhau, tán nhỏ. Uống với nước mỗi lần 8g, ngày hai lán.
Chữa bướu cổ: Ngày uống 4-5g quả hay cây ké đầu ngựa dưới dạng thuốc sắc (đun sôi, giữ sôi 15 phút)